Dưới tác động của thời kỳ toàn cầu hóa, các quốc gia hiện nay có xu hướng mở cửa thị trường, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biết là các tập đoàn đa quốc gia nhằm phát triển nền kinh tế trong nước. Tuy nhiên, khi tham gia vào thị trường, các nhà đầu tư luôn cố gắng tận dụng nhiều cách thức để thu được lợi ích tối đa về mình, gây xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi nhuận thông qua hình thức chuyển giá. Vậy xói mòn cơ sở tính thuế là gì? chuyển giá là gì? Các hình thức chuyển giá ra sao?
Thách thức từ xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận #
Xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi nhuận (Base Erosion and Profit Shifting – BEPS) được sử dụng bởi các công ty đa quốc gia nhằm chuyển dịch lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp. BEPS đang ngày càng trở nên phổ biến thông qua hành vi chuyển giá, thương mại điện tử, vốn mỏng, thiên đường thuế… Theo các chuyên gia tài chính, BEPS là hành vi trốn thuế của người nộp thuế.
Nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng khoảng trống và những hạn chế trong chính sách thuế tại các nước nơi doanh nghiệp này hoạt động sản xuất kinh doanh để thực hiện chuyển lợi nhuận sang nước hoặc vùng lãnh thổ có mức thuế suất thấp hơn hoặc bằng không.
Theo kết quả điều tra thống kê của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), thất thu ngân sách nhà nước từ thuế thu nhập doanh nghiệp vào khoảng 4% – 10% số thu ngân sách từ thuế TNDN toàn cầu, tương đương từ 100 – 240 tỷ USD/năm. Qua đó cho thấy, BEPS đang trở thành xu thế phổ biến đáng lo ngại, tác động không nhỏ đến môi trường đầu tư, kinh doanh, làm suy giảm sự minh bạch của hệ thống thuế, dẫn đến sự cạnh tranh không bình đẳng về thuế giữa các nước và làm tăng rủi ro tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế.
Không thể phủ nhận rằng, BEPS hiện là một vấn đề mang tính toàn cầu, có tác động qua lại giữa các nước (giữa các nước đầu tư và các nước tiếp nhận đầu tư), đã và đang trở thành thách thức lớn đối với chính phủ các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển. Theo nhận định của OECD, BEPS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển vì thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN, đặc biệt là thuế TNDN.
Tuy nhiên, thời gian qua, hành vi “trốn thuế/tránh thuế” lại thể hiện rõ nhất là hành vi “chuyển giá” của các DN, tập trung chủ yếu vào khối DN FDI các giao dịch qua biên giới trong lĩnh vực thương mại điện tử, một số DN nước ngoài có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử và có thu nhập phát sinh tại Việt Nam nhưng chưa thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế.
Hành động của Chính phủ Việt Nam #
Để đảm bảo các giải pháp về BEPS được triển khai hiệu lực, hiệu quả, đồng thời để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp này trong quá trình triển khai, OECD đã thiết lập Diễn đàn hợp tác chung bao gồm các nước thành viên và không phải là thành viên của OECD và G20 cùng thực hiện triển khai Diễn đàn hợp tác chung BEPS trên phạm vi toàn cầu, trong đó có các nước đang phát triển. Việc tham gia vào Diễn đàn hợp tác chung sẽ giúp các nước có được sự hỗ trợ cần thiết để triển khai các giải pháp ngăn chặn BEPS hiệu quả, giúp bảo vệ nguồn thu và cơ sở tính thuế.
Nhận thức được điều này, để chủ động ngăn chặn BEPS, Việt Nam đã có các biện pháp tương đối mạnh để xử lý việc lạm dụng hiệp định thuế của Việt Nam với các nước. Theo đó, ngay từ năm 2015, Bộ Tài chính đã phối hợp với các chuyên gia quốc tế rà soát sơ bộ các nội dung trong Chương trình hành động chống BEPS và đã xác định được các vấn đề có rủi ro cao và cấp bách nhất liên quan đến BEPS đối với Việt Nam.
Việt Nam cam kết thực hiện tối thiểu 4 hành động trong gói giải pháp tổng thể gồm 15 hành động nhằm ngăn chặn BEPS (với thời gian và lộ trình tùy thuộc vào điều kiện yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế của Việt Nam). Về cơ bản, các chuẩn mực này phù hợp với các nhiệm vụ trọng tâm mà Bộ Tài chính Việt Nam triển khai trong giai đoạn 2016-2020. Cụ thể:
Thứ nhất, trong lĩnh vực thương mại điện tử: Bộ Tài chính sẽ soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn chung trên cơ sở tham khảo thông lệ các nước về phương thức quản lý, chính sách áp dụng, đặc biệt là đối với các giao dịch kinh doanh qua biên giới; Mức thuế áp dụng đối với các sản phẩm, dịch vụ điện tử; xem xét, nghiên cứu áp dụng các quy định về điều kiện tạo thành cơ sở thường trú trong lĩnh vực thương mại điện tử theo thông lệ quốc tế.
Thứ hai, trong lĩnh vực hiệp định thuế: Xem xét, sửa đổi và bổ sung các quy định để chống lợi dụng/tránh thuế theo Hiệp định; Nghiên cứu, áp dụng cơ chế giải quyết tranh chấp theo thỏa thuận song phương; Đề xuất ký kết đàm phán Hiệp định đa phương về thuế; Báo cáo Chính phủ tham gia Hiệp định đa phương về thuế quốc tế và tham gia các Diễn đàn đa phương về quản lý thuế và trao đổi thông tin.
Thứ ba, trong lĩnh vực giá chuyển nhượng: Ngày 05/11/2020, Chính phủ ban hành Nghị định 132/2020/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết thay thế cho Nghị định số 20/2017/NĐ-CP quy định về quản lý thuế đối với doanh nghiệp có giao dịch liên kết ngày 22/02/2017. Việc kịp thời ban hành các văn bản này giúp cơ quan quản lý thuế có công cụ quản lý “mạnh mẽ hơn và linh hoạt hơn” để nâng cao hiệu quả quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết.
Thứ tư, trong lĩnh vực thuế: Rà soát lại các quy định về ưu đãi miễn giảm, xem xét, bổ sung quy định về tỷ lệ lãi vay trên vốn chủ sở hữu được tính vào chi phí được trừ khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp và đưa vào chương trình đề xuất sửa đổi Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp.
Chuyển giá là gì? #
Chuyển giá (transfer pricing) là việc các chủ thể kinh doanh (chủ yếu là các công ty đa quốc gia – MNCs), các công ty có mối quan hệ liên kết với nhau thực hiện chính sách giá nhằm thay đổi giá trị trao đổi của hàng hóa, dịch vụ và tài sản trong quan hệ với các bên trong tập đoàn hay nhóm liên kết không tuân theo giá cả thị trường với mục đích tối thiểu hóa số tiền thuế phải nộp của toàn tập đoàn. Ngoài ra còn một số mục đích khác như: chiếm lĩnh thị trường, nhanh chóng thu hồi vốn tại các quốc gia tiếp nhận đầu tư…
Hoạt động chuyển giá gây xói mòn cơ sở tính thuế và chuyển dịch lợi nhuận (Base Erosion and Profit Shifting – BEPS) sang các quốc gia có mức thuế suất thấp hơn.
Starbuck ví dụ điển hình của chuyển giá #
Starbucks là một trong những thương hiệu cà phê hàng đầu thế giới. Starbucks có mặt tại nhiều quốc gia và thu về hàng tỷ USD doanh thu. Ngoài “đất mẹ” là nước Mỹ, Anh là thị trường lớn nhất của Starbucks. Riêng thị trường Anh đủ sức mang lại cho Starbucks dưới 1 tỷ USD mỗi năm.
Vào thời điểm cuối tháng 9/2012, Starbucks có 593 cửa hàng. Nhưng sau đó 1 năm, số cửa hàng giảm xuống chỉ còn 549 cửa hàng. Dù giảm sút thì số lượng cửa hàng của Starbucks tại Anh vẫn là con số khổng lồ với bất cứ thương hiệu cà phê nào.
Thế nhưng, đôi khi quy mô hoạt động và doanh thu lại không song hành cùng lợi nhuận. Doanh thu cao, lợi nhuận chưa chắc đã lớn. Thậm chí, lợi nhuận còn có thể âm. Hoạt động của Starbucks tại thị trường Anh là trường hợp thứ 2.
Năm 2012, Starbucks công bố đạt doanh thu 413 triệu bảng Anh (tương đương 658 triệu USD) tại thị trường Anh, tăng 4% so với năm trước. Doanh số cao ngất ngưởng mang lại cho Starbucks khoản… thua lỗ 30 triệu bảng. Đây là điều bất thường nhưng với những ai quan tâm tới Starbucks, điều bất thường này hóa ra lại bình thường vì tình trạng doanh thu cao, thua lỗ nặng của Starbucks diễn ra suốt 15 năm qua.
Nguyên nhân thua lỗ đã được Starbucks giải thích rõ ràng. Dù Starbucks tại Anh kinh doanh tốt nhưng doanh thu không bù được chi phí vì Starbucks phải nộp “phí bản quyền” cho công ty mẹ rất nhiều. Mà “phí bản quyền” này lại phụ thuộc công ty mẹ chứ không phải do thị trường quyết định. Điều tương tự cũng đã xảy ra với Coca Cola tại Việt Nam khi Coca Cola phải trả tiền nguyên liệu độc quyền cao ngất ngưởng cho công ty mẹ.
Để đạt được mục đích ấy, họ thành lập mạng lưới công ty mẹ con ràng buộc lẫn nhau, theo phương châm càng phức tạp và rối càng tốt. Công ty mẹ đóng trụ sở ở nơi áp dụng mức thuế thấp.
Các công ty con ở nơi áp dụng mức thuế cao thường không được tự chủ về tài chính và kế toán, trả lệ phí bản quyền và mua thương hiệu rất cao, thậm chí cả trả lãi cho công ty mẹ cũng được áp dụng để chuyển lợi nhuận ra khỏi quốc gia nước có mức thuế cao, gây xói mòn cơ sở tính thuế.
Nguyên nhân của chuyển giá là gì? #
Nguyên nhân khách quan
- Thứ nhất, hoạt động chuyển giá xuất phát từ quyền tự do định đoạt (quyền mua, quyền bán sản phẩm, dịch vụ với giá mong muốn) của các chủ thể kinh tế trong kinh doanh ngành nghề, mặt hàng mà luật pháp cho phép.
- Bối cảnh toàn cầu hóa mạnh mẽ buộc chính phủ các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế. Chính điều này đã tạo cơ hội thuận lợi cho các MNCs mở rộng hoạt động kinh doanh bằng hình thức thành lập công ty con, chi nhánh ở nước ngoài… tạo thành “mắt xích” cho việc chuyển giá.
- Các nguyên nhân khách quan đến từ sự khác biệt về chính sách thuế, chế độ hạch toán kế toán, kiểm toán, chiến lược thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của các quốc gia… tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty đa quốc gia xây dựng chiến lược chuyển giá.
- Việc kiểm soát các công ty đa quốc gia vượt ra ngoài sự kiểm soát của một quốc gia.
Nguyên nhân chủ quan
- Khung pháp lý cũng như các cơ chế chính sách liên quan đến vấn đề kiểm soát hoạt động chuyển giá của nhiều quốc gia (đặc biệt là ở các quốc gia đang và chậm phát triển) còn tồn tại nhiều hạn chế, chưa hoàn thiện.
- Các công ty đa quốc gia có tiềm lực kinh tế hùng mạnh, trình độ quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính rất cao. Trong khi đó, các quốc gia tiếp nhận đầu tư trình độ của các cán bộ quản lý thuế, tài chính, hải quan… còn tồn tại nhiều hạn chế. Chính bởi sự chênh lệch này, các doanh nghiệp MNCs sẽ dễ dàng trong việc “che đậy” hoạt động chuyển giá của mình,
Một số dấu hiệu nhận biết chuyển giá #
Một số các dấu hiệu nhận biết chuyển giá chính bao gồm:
- Các doanh nghiệp báo lỗ liên tiếp 2 năm trở lên kể từ khi thành lập;
- Các doanh nghiệp có tình hình lãi lỗ luân phiên hoặc tình hình lãi lỗ phát sinh không bình thường;
- Doanh nghiệp có các nghiệp vụ chuyển giao với các doanh nghiệp ở những quốc gia có thuế suất thấp;
- Doanh nghiệp có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành hoặc các doanh nghiệp trong cùng một tập đoàn;
- Các doanh nghiệp có chi phí sản xuất thấp hơn hoặc cao hơn hẳn so với mặt bằng chung của thị trường;
- Doanh nghiệp có phát sinh giao dịch mua bán chính, chiếm tỷ trọng cao với các công ty liên kết;
- Doanh nghiệp FDI chịu sự chi phối về giá đầu vào và đầu ra của công ty mẹ.